Thức ăn bổ dưỡng và nhuận trường

Quả Mơ (Apricot)

 

Viên Đinh Trần Ken

email: trankenau@yahoo.com.au

 

Đặc tính của quả mơ

     Quả Mơ c̣n gọi là apricot trong tiếng Anh, là abricot theo tiếng Pháp, là x́ng zi trong tiếng Bắc Kinh (tiếng Phổ Thông Trung Quốc), là anzu trong tiếng Nhật. Cả người Nhật lẫn người Hoa đều viết tên gọi này cùng một dạng Hán tự, phát âm theo lối Hán Việt là hạnh tử.Quả Mơ có tên khoa học là Prunus armenicaca, thuộc họ Rosaceae.

 

     Quả mơ là một thứ trái cây dồi dào chất dinh dưỡng, chất chống ốc-xit-hoá, Vitamin A, B và C, cùng các chất khoáng gồm có can-xi, ma-nhê, pô-tat và chất sắt. Quả mơ khô chứa rất nhiều chất sắt hơn quả tươi; vitamin C có trong quả mơ có tác dụng giúp cơ thể hấp thụ chất sắt nhiều hơn.V́ loại trái cây này dễ tiêu, nên nuớc cốt trái cây này tốt cho những người suy nhược về thể chất hay tinh thần, kém sức khoẻ hoặc có tâm trạng căng thẳng. Chất can-xi, ma-nhê và pô-tat đều rất cần thiết cho hệ thần kinh và cơ bắp, giúp chúng hoạt động b́nh thường; những chất khoáng này giúp cơ thể khắc phục tâm trạng căng thẳng.

 

    Quả mơ có nhiều chất xơ nhưng lại tương đối có ít nhiệt lượng (calories). V́ thế tôi nghĩ quả mơ có thể coi như là thức ăn tốt cho quư bà quư cô muốn giữ cho thân h́nh thon gọn hay bất cứ ai muốn sụt cân. Lượng ca-rô-tê-nô-id (crotenoids) có trong quả mơ rất lớn, cho nên quả mơ là thức ăn tốt cho da và mắt. Đó là thức ăn rất tốt cho cơ thể trong việc chống chỏi bệnh tật. Quả mơ cũng là một thức ăn thiên nhiên chống ung thư tuyệt vời.

 

    Quả mơ có chứa chất sa-li-xi-lat (salicylates) cho nên có thể gây dị ứng cho một số người. Chất phụ-gia lưu-huỳnh dùng để giữ quả mơ khô trông tươi tốt lâu cũng có thể gây dị ứng.Tốt nhất nên mua loai mơ khô không có chứa chất lưu huỳnh.

 

 

Lai lịch, vùng trồng mơ và mùa mơ

 

     Cây mơ thích hợp với vùng có khí hậu khô ráo và ôn hoà.Cây mơ có gốc gác ở miền Trung Á. hay Đông Á (Miền Hoa Bắc, Mông Cổ). Nay ở Trung Đông, vùng Địa Trung Hải có trồng rất nhiều cây mơ. Tôi nghĩ có lẽ Thổ Nhĩ Kỳ là nước trồng rất nhiều mơ, v́ tôi thấy các siêu thị ở Úc thường bán quả mơ khô nhập cảng từ Thổ Nhĩ Kỳ. Ở Úc và ở Hoa Kỳ, nhất là ở tiểu bang California có trồng mơ.

 

      Người Trung Quốc biết đến quả mơ hơn hai ngàn năm qua rồi. Tướng quân Lucullus thời Đế Quốc La Mă mang cây mơ từ miền Trung Á về Châu Âu và trồng trong vườn đầy cây cối của ông sau cuộc Đông Chinh Châu Á.

 

     Từ thuở xa xưa người ta đă biết tới loại trái cây này. Lúc bấy giờ, loại trái cây này được trân quư như môt món ăn thanh tao và được dùng như môt loại dược liệu trị bịnh đau tai, bịnh mũi do nhiễm trùng và bịnh trĩ. Loại trái cây này phổ biến ở nước Anh vào thế kỷ 16. Người Anh dùng quả mơ như một thứ thức ăn nhuận trường.

 

     Mùa có nhiều quả mơ là mùa hè; mơ chín rộ vào giữa mùa hè, khoảng sau lễ Giáng Sinh đến Tết ta ở Úc. Theo sự suy luận của tôi th́ mùa mơ chín rộ vào khoảng cuối tháng Sáu đến tháng Bảy ở Hoa Kỳ và các nước khác ở Bắc Bán Cầu.

 

 

Cách chọn quả mơ ngon

 

     Khi mua quả mơ nên chọn loại quả tṛn trịa trông mượt mà (plump, juicy-looking) lại có màu đỏ ửng hay vàng rộm đều khắp (having a uniform golden orange color). Những quả mơ như vậy là những quả chín cây hay hái đứng lúc, vừa chín tới, ăn rất ngon.Tránh mua những trái mềm nhũn (soft & mushy), v́ những trái như vậy thường là những trái không được tươi, sắp hư thối. Cũng không nên mua những trái c̣n cứng có màu tái xanh (greenish), v́ đó là những trái hăy c̣n non. Những trái có vỏ vàng ệch (pale yellow) không đáng mua ăn v́ đó là những trái chín héo, khi hái chưa chín tới. Loại chín héo ăn không ngon, dễ ngán.

 

 

Công dụng

 

 

 

Thức uống giúp giữ eo (apple and apricot slimmer):

     Thành phần gồ có:

6 quả mơ khô

125ml (4fl oz) nước cốt trái táo (apple juice)

100g (4 oz) sữa chua (natural live yogurt) loại ít chất béo (low fat)

một tí nhục đậu khấu xây nhiễn (a little freshly ground nutmeg)

 

     Hấp hay chưng quả mơ với một chút nước cho mềm rồi thải bỏ chất nước. Bỏ quả mơ chung với nước cốt trái táo và sữa chua trong máy xây sinh tố để xây thành chất lỏng. Sau đó rắc chút nhục đậu khấu nghiền nhiễn vào nuớc cốt này. Lương dùng trên đây dành cho một lần. (Cook the apricots in a little water until soft then drain. Blend with the apple juice and yogurt and top with a sprinkling of ground nutmeg. 1 serving)

 

Thức uống trái cây bổ dưỡng Trung Quốc (Chinese apricot and grapefruit tonic)

Thành phần gồm có:

4 đến 6 quả mơ khô

2 muổng cà phê mật ong

300ml (1/2 pint) nước cốt trái bưởi

một ít nhục đậu khấu nghiền nhiễn (a sprinkling of ground nutmeg)

 

     Hấp hay chưng quả mơ khô với chút nước vừa đủ ngập quả đến khi mềm hẳn. rồ thải bỏ nước. Quậy đều trong mật ong khi quả mơ c̣n nóng. Cho nước cốt trái bưởi vào làm thành chất lỏng trong máy xây sinh tố. Rắc chút ít nhục đậu khấu nghiền vào nước cốt này trước khi uống. Lượng vừa đủ cho một phần. (Cook the apricots in enough water to cover, until soft. Drain. Stir in the honey while the apricots are hot.Add the grapefruit juice and liquidize. Sprinkle with nutmeg before drink. 1 serving)

 

Thức uống nhuận trường (American papaya and almond dream)

     Thành phần gồ có:

6 quả mơ khô hoặc tươi

50g (2 oz) đu đủ tươi hoặc khô (ngâm nước rồi)

300ml (1/2 pint nuớc cơm sữa (gạo nấu với sữa, rice milk có bán trong siêu thị Safeway)

1 muổng cà phê hạnh nhân xây nhiễn (ground almonds)

một nhúm bột củ gừng hoặc củ gừng tươi mài nhiễn (a pinch of ground or freshly grated root ginger)

 

     Nếu dùng quả mơ khô th́ nấu với chút nước cho mềm rồi thảy bỏ nước. Bỏ ba thứ trên vào máy xây sinh tố, xây cho nhuyễn. Rắc chút gừng khi uống. Lượng này cho một phần.  (If using dried apricots, cook them in a litle water until soft and drain. Place the ingredients together in a blender and blend until smooth. Serve sprinkled with a little ginger. 1 serving)

 

     Loại nước cốt này có tính nhuận trường, uống thường xuyên giúp ta đi cầu trơn tru. Đó là liều thuốc tốt cho những ai bi bịnh viêm khệ thất (diverticulitis). Theo tôi nghĩ loại nước uống này cũng tốt cho những ai bi bịnh trĩ nữa, v́ bệnh trĩ là do tao bón lâu ngày mà ra; dứt táo bón th́ bệnh trĩ cũng sẽ lành hẳn.

 

Kinh nghiệm bản thân

     Tôi là loại người hay bị nóng trong ḿnh, tạng người hay bị táo nhiệt. Từ lúc tuổi thanh niên tôi đă bắt đầu hay bị táo bón. Tôi t́m mọi cách ăn uống sao cho nhuận trường trong thời kỳ trọ học ở Sài G̣n. Nào cải xà lách, cà chua, rau muống, nào cam ăn cả xác, nước cam vắt (có cả xác) uống với mật ong, đu đủ, chuối, v.v.., nhưng không thấy kết quả mấy. Tôi chỉ thấy cam vắt (có cả xác) trộn với mật ong là thứ nuớc uống tương đối có hiệu nghiệm hơn về phương diện nhuận trường trong thời gian đó mà thôi. Có lẽ đời sống học sinh ở trọ ăn uống kham khổ, không đủ liều lượng chất xơ đúng mức, lại ngồi nhiều. Sau đó v́ táo bón lâu ngày tôi mang bệnh trĩ. Tôi đến trị bịnh trĩ tại pḥng mach bác sĩ trị bịnh trĩ có tiếng ở Sài G̣n là Bác sĩ Dương Dậu. Lúc đó tôi không gặp được ông; con trai ông, nối giơi nghề của ông, thực hiện tiểu giải phẩu cho tôi, vào năm 1965 th́ phải. Nhưng sau đó bịnh vẫn thường hay tái phát, v́ bón vẫn hoàn bón.

 

     Tám năm đầu khi sống ở Úc, bịnh trĩ thỉnh thoảng vẫn tái phát, nếu táo bón kéo dài lâu ngày. T́nh cờ tôi đọc được một bài báo viết về bịnh trĩ do một bác sĩ Việt Nam hành nghề bác sĩ ở Úc, dường như là bác sĩ Trần Thanh Nhơn th́ phải. Ông ta viết đại ư như thế này: Muốn cho dứt bịnh trĩ th́ cố gắng đừng để bị táo bón; muốn hết táo bón th́ nên ăn hay uống loại có chất xơ. Bột chất xơ có bán ở các nhà thuốc Tây. Tôi dùng bột chất xơ đó hết hai hủ lớn. T́nh trạng đi cầu khả quan. Sau đó tôi xoay qua ăn nhiều cải luộc có nhiều chất xơ như cải bẹ trắng, cải silver beet, cại bắp, cải rổ người Bắc gọi là cải làn. Mấy năm gần đây, ở Úc có bán cải bẹ trắng Thượng Hải; loại cải nầy luộc hay nấu canh vừa đủ mềm ăn rất ngon. Theo thiển nghĩ, những ai hay bị táo bón, ít chịu ăn cải, nên ăn loại cải này thường xuyên. Nhớ nấu luôn cả cùi gần rễ, v́ đó là phần có nhiều chất xơ. Quư vị cao niện nếu không c̣n đủ răng tốt để nhai nên nấu nhừ phần bẹ và cùi riêng v́ phần lá không cần nấu nhừ; phần lá nấu nhừ ăn mất ngon. Hơn nữa, nấu nhừ phần lá sẽ mất đi nhiều chất dinh dưỡng quư báu như diệp lục tố chẳng hạn.

 

     Cải silver beet luộc trong nước gà luộc đúng cách cũng khá ngon. Đợi nước sôi rồi mới để cải vào luộc. Khi để cải vào nồi nên dùng đũa ǵm cải xuống dưới mặt nước ngay; tránh để cải lú khỏi mặt nước. Nếu để cải lú khỏi mặt nước, th́ phần cải đó sẽ đen v́ chất sắt có nhiều trong loại cải này bị ốc-xít hoá. Khi cải vừa chín mềm vớt ra ăn liền; nếu để ngoài không khí lâu cũng bị đen, ăn có mùi không ngon. Nên luộc phần lá và phần bẹ riêng. Quư vị nào không c̣n răng tốt để nhai hay không ăn được cải silverbeet có thể ăn rau bina (spinach) thay thế silver beet. Cải silverbeet là thứ cải rất dễ trồng, không cần chăm sóc. Theo kinh nghiệm của tôi, nếu số lưọng cải mua hơi nhiều; ăn không hết một lần số cải đang có nên luộc phần lá ăn trước; phần cọng nên dành lại bữa ăn khác, v́ lá để lâu sẽ bị vàng úa, ăn có hại.Tôi nghiệm thấy nhờ ăn cải luộc nhiều (ăn một tô lớn), tôi đi cầu rất trơn tru, khỏi phải rặn. Từ lúc đó tôi thường xuyên ăn nhiều cải và trái cây, nhất là quả mơ. Nhờ vậy không c̣n bị táo bón nữa và bịnh trĩ của tôi không tái phát. Ngày nào thiếu cải và thiếu trái cây tôi có tâm trạng như thiếu vắng một cái ǵ ấy, tựa như tâm trạng của một kẻ đang yêu khi vắng bóng người ḿnh yêu thương!

 

     Mấy năm gần đây, ở Úc có bán bông cải xanh (broccoli), tôi thường hay mua luộc ăn. Tôi cũng thấy khá tốt về phương diện nhuận trường. Theo một bài viết trong sách hay trong tạp chí nào đó tôi đă đọc qua th́ ăn loại cải này có thể ngừa đựợc bịnh ung thư. Theo kinh nghiệm của tôi th́ nên luộc nhanh; không nên luộc lâu, v́ luôc lâu cải sẽ bị vàng úa; luộc quá mềm ăn không ngon. Theo một quyển sách nào đó tôi đă dọc qua th́ ăn sống loại cải này càng tốt. Nên nấu phần bông ăn ngay khi mua về, v́ để lâu bông dễ bị vàng úa; phần cọng th́ dành cho bữa khác v́ để lâu không biến chất. Xin đừng bỏ phần cọng quá cứng, chỉ cần lột bỏ phần ngoài, v́ đó là phần có nhiều chất xơ nhất Nên mua loại có bông xanh đậm hăy c̣n tươi. Tránh mua loại bán hạ giá v́ quá cũ, bông sắp trở màu vàng úa.

 

      Tôi phát giác quả mơ là thức ăn nhuận trường tuyệt diệu vào cuối năm 1987. Lư do là sân sau nhà tôi có một cây mơ khá sai trái. Khi hái, tôi thường thấy nhiều trái chín cây hay bị chim mổ lại ăn khá ngon. Tôi là con nhà nghèo từ nhỏ lại từng bị đi tù cải tạo gần 3 năm sau  ngày 30 tháng Tư năm 1975, nên tôi không muốn “phí của trời”. Tôi bèn “ních” khá nhiều quả mơ đó vào mùa chín rộ năm đó. Sau ngày ăn nhiều quả mơ như vậy tôi phải chạy vào nhà cầu quưnh quáng. Nếu không th́ đũng quần ắt bị dơ, ngoài ư muốn. Vào mùa mơ chín rộ, tôi thường chiếu cố nhà cầu hơn thường lệ, và đi cầu rất trơn tru. Vào mùa mơ, tôi thường hái phân phát cho gia đ́nh các em tôi và bạn bè quen biết mà vẫn c̣n dư. Tôi thường hái nhiều đợt, lựa trái vừa chín tới hái trước. Vài năm gần đây tôi nảy cách trữ trong tủ ngăn đá để ăn dần, v́ trái bị chim ăn, trái quá nhỏ và trái có vỏ hơi xấu tôi đâu dám cho ai, giữ lại th́ ăn không hết. Ăn hết quả tươi tôi xoay qua ăn loại đông đá. Mỗi lần muốn ăn tôi lấy một ít quả mơ trữ trong ngăn đá vừa đủ ăn trong ngày đế sẵn trong ngăn tủ lạnh thường; khoảng một buổi th́ trái mơ mềm nhũn, có nước rỉ ra. Tôi nghĩ loại quả mơ đông đá để mềm nhũn như vậy hợp với những ai không c̣n đủ răng để nhai mơ tươi hay mơ khô.

 

     Ban đầu tôi ăn quả mơ nhiều cũng thấy ngán, v́ không ngon bằng quả đào. Tôi tự nhủ, thay v́ uống thuốc, ăn quả mơ vừa bổ dưỡng lại nhuận trường. Đây là của trời cho ḿnh, tại sao ḿnh không ăn? Hơn nữa, đó là thứ trái cây có nhiều chất xơ nhất trong các lại trái cây. Ăn nhiều không bị nóng như xoài chẳng hạn. Từ đó trở đi tôi cố gắng ăn liên tục rồi quen dần. Ăn lâu ngày, tôi cũng thấy không đến nỗi tệ. Nếu ăn hết cây nhà lá vườn trữ trong ngăn đá, tôi mua mơ khô trữ sẵn để ăn tiếp cho đến mùa mơ sau, khi cảm thấy thức ăn trong ngày thiếu chất xơ.

 

     Nếu quư vị thích ăn cứng và ăn lạnh được th́ khi lấy ra từ ngăn đông đá ăn ngay cũng được. Bằng không th́ lấy ra để trong ngăn tủ lạnh một buổi th́ mềm nhũn giống như nấu chín rục vậy. Lúc đầu ăn loại mơ để mềm tôi thấy hơi ngán; lâu dần tôi lại thấy ngon nhờ chất nước rỉ ra chua chua ngọt ngọt.

 

     Nếu quư vị không thích ăn chua th́ hái hay mua loại trái chín cây, hay vừa chín tới đế đôi ba ngày cho chín hẳn rồi mời xẻ ra làm đôi hay làm tư, bỏ hột rồi để trữ trong ngăn đá ăn dần. Nên nhớ là để đông đá ăn thấy chua hơn ăn tươi. Theo kinh nghiệm của tôi, trái mơ càng chín, càng có công dụng nhuận trường. Loại chín héo ăn dễ ngán hơn. Ăn trái vừa chín tới trên cây khá ngon miệng.

 

     Nếu trong nhà quư vị chỉ có một người ăn thôi th́ xẻ ra để trong hợp mủ (plastic) nhỏ mà thiên hạ thường dùng để đựng nước mắm hay nước tương khi ta mua thúc ăn tại các quán ăn, nếu không muốn bỏ công phơi khô. Loại mơ đông đá không có phơi khô cho ráo nước th́ khó tách ra. V́ vậy, tôi thường xẻ đôi hay xẻ làm tư quả mơ rồi mang phơi ngoài nắng suốt một ngày từ sáng sớm tới chiều tối cho ráo nước. Nhờ vậy khi đông đá các miếng mơ không dính nhau khi đông cứng, dễ gở ra. Tôi phơi khô bằng cách để quả mơ xẻ ra trong đĩa lớn, và đậy bằng cái rổ dùng để rứa rau cải, tránh dược ruồi bu khi phơi nắng.

 

     Quư vị nào có chứng hay táo bón như tôi th́ nên mua quả mơ vào giữa mùa hè, đó là mùa mơ rộ chín, khá rẻ lại ngon. Mua trữ ăn dần như tôi đă và đang làm. C̣n quư vị nào sau nhà có cây mơ ăn không hết th́ hăy hái cho ngườ thân và bạn bè ăn hay rủ họ tới hái về ăn, nếu không có th́ giờ hái cho họ. Chớ phí của trời cho quư báu này, quư vị nhé! Nếu ngại tốn th́ giờ xẻ mơ tươi phơi ráo nước th́ quư vị cứ việc tới siêu thị t́m mua mơ khô về ăn, nếu c̣n đủ răng để nhai. Mơ khô ở siêu thị ăn ngon ngọt hơn mơ tươi, lại có nhiều chất sắt hơn. Nếu quư vị nào hay bị táo bón mà không thích ăn cải có chất xơ và ăn cam hay nhả xác th́ nên ăn mơ khô. Điều nên nhớ là xác cải và xác cam là chất xơ, nó là chất nhuận trường. Một ngày ăn khoảng ba bốn trái mơ th́ sẽ giúp đi cầu trơn tru. Càng ăn nhiều càng dễ đi cầu. Nhớ ăn lúc bụng đói nhé! Quư vị nào v́ công việc làm ăn thư8ờng xuyên hoạt động ngoài đường phố, không có th́ giờ ăn trưa, hay trong chuyến đi du lịch ăn uống thất thường th́ nên mua mơ khô và hột hạnh nhân trữ sẵn để ăn dọc đường khi buồn miệng hoặc đói bụng. Chớ có ăn quá nhiều hột hạnh nhân v́ ăn nhiều không tốt. Nên ăn hạnh nhân rang chín. Gần đây tôi lại khám phá ở siêu thi có bán loại thức ăn có nhăn hiệu “Just BRAN”. Đó là thoại thức ăn làm bằng cám nén thành cọng nhỏ, Trộn món ăn này với sữa ḅ tươi hoặc sữa đậu nành ăn liền rất ngon miệng, vừa ḍn vừa béo lại vừa ngọt. Nếu ăn khô cũng khá ngon, rất ḍn. Đó là loại thức ăn tốt cho sức khoẻ.Tôi thường mang theo thức ăn này, sữa đậu nành và trái cây để ăn trưa trên đường đi làm Khi ăn nhiều tôi thấy đó cũng là thức ăn nhuận trường tốt. Tôi nghĩ thức ăn này rất thích hợp cho quư vị cao niên hay bị táo bón. Xin quư vị nhớ ăn liền khi trộn sữa vào thức ăn này nhé! Để lâu sẽ mềm nhũn, ăn không ngon, dễ ngán.

    

Ước mong    

     Tôi mong mỏi bài viết này sẽ giúp ích cho quư vị cao niên kém sức khoẻ lại hay bị táo bón. Chúc quư vị sẽ t́m thấy niềm vui trong cuộc sống v́ sức khoẻ khá hơn, đi cầu dễ dàng, thường xuyên hơn và nhất là khỏi phải uống thuốc xổ nữa. Tôi nghĩ thuốc xổ có hại cho đường ruột, bất đắc dĩ ta mới dùng nó.

 

     Tôi cũng ước mong, “những ai đau khổ v́ bịnh trĩ” sẽ thấy dễ chịu trong cuộc sống v́ đă thoát nạn bịnh trĩ, nhờ đi cầu trơn tru hằng ngày. Chúc quư vị sẽ có làn da mặt hồng hào hơn, mượt mà, tươi tắn, và trông trẻ trung hơn xưa.

 

     Nếu trong tương lai tôi nhận được nhiều tin vui của quư vị gởi tới th́ tôio sẽ rất vui, v́ đó là niềm hạnh phúc lớn lao đối với tôi, tôi đă đạt được mục đích khi tôi có ư định viết bài viết này.

 

Tài liệu tham khảo:

 

“Healing Drinks”, Anne McIntyre, Simon & Schuster, Australia P/l, ấn bản. năm 2000, trang.35, 51, 95 và 110

“World Book” (Encyclopedia) Vol.A 1, ấn bản năm 1992, trang.506

“Super foods for Children”, Michael Van Straten & Babara Griggs Dorling Kindrsley us. Pty Ltd, ấn bản năm 2001, trang 38  

“The Ultimate Smoothie Book”, Cherie Calbom, A time Warmer Company, USA, ấn bản tháng Tám năm. 2001, trang 12 và 13 

 

Ghi chú:

Khởi viết ngày 14 tháng 5 năm 2001.  Hiệu đính xong  ngày 5 tháng 12 năm 2003.

Mong nhận được ư kiến đóng góp của quư vị, nếu quư v́ thấy có ǵ sai sót, để bản văn này được hoàn chỉnh khi có dịp hiệu đính sau này. Quư vị có thể liên lạc bằng email qua địa chỉ email ghi trên đầu bài